Nghị quyết 08/NQ - TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm về công tác tư pháp, Chỉ thị số 10/2002/CT-TTg ngày 19/3/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ chính trị và mới đây nhất là Nghị quyết số 49/NQ - TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đều nhấn mạnh yêu cầu phải nghiên cứu và xúc tiến việc xã hội hoá công chứng. Vậy, công chứng và xã hội hoá công chứng là gì? Phương hướng và giải pháp xã hội hoá công chứng ở Việt Nam ra sao? Đó là những vấn đề được tác giả đề cập trong bài viết.
CÔNG CHỨNG VÀ XÃ HỘI HOÁ CÔNG CHỨNG Ở VIỆT NAM
16-10-2005
Nghị quyết 08/NQ - TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm về công tác tư pháp, Chỉ thị số 10/2002/CT-TTg ngày 19/3/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ chính trị và mới đây nhất là Nghị quyết số 49/NQ - TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đều nhấn mạnh yêu cầu phải nghiên cứu và xúc tiến việc xã hội hoá công chứng. Vậy, công chứng và xã hội hoá công chứng là gì? Phương hướng và giải pháp xã hội hoá công chứng ở Việt Nam ra sao? Đó là những vấn đề được tác giả đề cập trong bài viết.
1. Một số vấn đề lý luận về công chứng và xã hội hoá công chứng
Công chứng và mô hình công chứng
Công chứng là hành vi của công chứng viên lập, chứng nhận các hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định phải công chứng hoặc theo yêu cầu của công dân và các tổ chức, nhằm bảo đảm an toàn pháp lý cho các chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại. Hợp đồng, giấy tờ đã được công chứng có giá trị thực hiện và giá trị chứng cứ.
Công chứng đã có lịch sử hình thành, phát triển hàng ngàn năm và gắn bó chặt chẽ với đời sống dân sự. Khởi đầu, công chứng là một nghề tự do trong xã hội, phục vụ cho nhu cầu tự nhiên, tự bảo vệ của dân chúng khi thiết lập các văn tự, khế ước. Trải qua sự thăng trầm của lịch sử, công chứng đã khẳng định sự tồn tại vững chắc và đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, được nhà nước thừa nhận và trở thành hoạt động hỗ trợ đắc lực cho công dân và nhà nước trên cả hai phương diện: hỗ trợ hành pháp (quản lý nhà nước) và bổ trợ tư pháp.
Cho đến nay, công chứng tồn tại ở hầu hết các quốc gia trên thế giới và hình thành nên ba hệ thống công chứng sau[1]:
- Hệ thống công chứng Latinh (chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của hệ thống luật La mã, còn gọi là hệ thống pháp luật dân sự – Civil Law). Hệ thống này tồn tại ở hầu hết các nước thuộc cộng đồng châu Âu (trừ Đan Mạch và Anh); châu Phi (các nước thuộc địa cũ của Pháp); các nước châu Mỹ - La tinh, bang Quebec của Canada, bang Luisane của Hoa Kỳ, một số nước châu á (Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ...).
- Hệ thống công chứng Anglo-saxon, gắn liền với hệ thống pháp luật Anglo-Saxon (Common Law), tồn tại ở các quốc gia: Vương quốc Anh, Mỹ (trừ bang Luisane), Canada (trừ bang Quebec); Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Đài Loan...
- Hệ thống công chứng Collectiviste (công chứng tập thể) tồn tại ở các nước XHCN trước đây và phát triển mạnh vào các năm 70 của thế kỷ XX đến trước năm 1990, bao gồm: Liên Xô, Ba Lan, Đông Đức, Bungari, Hungari, Rumani, Cu Ba, Trung Quốc, Việt Nam.
Mặc dù hình thành ba hệ thống công chứng như trên, song chung quy lại, chỉ có hai mô hình công chứng: mô hình công chứng tự do (ở hệ thống công chứng Latinh và hệ thống công chứng Anglo-Saxon) và mô hình công chứng nhà nước (chỉ tồn tại ở hệ thống công chứng Collectiviste).
ở mô hình công chứng tự do, các công chứng viên được Nhà nước bổ nhiệm, hành nghề tự do theo quy định của pháp luật đối với các hình thức văn phòng công chứng tư nhân hoặc văn phòng công chứng tập thể, tự chủ trong tổ chức, hoạt động, tự hạch toán và đóng thuế cho Nhà nước. Công chứng viên chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi công chứng của mình, phải bồi thường thiệt hại bằng tài khoản tiền ký quỹ của mình nếu hành vi công chứng gây thiệt hại cho khách hàng hoặc người thứ ba.
ở mô hình công chứng nhà nước, cơ quan công chứng là thiết chế nhà nước, công chứng viên là công chức nhà nước, do nhà nước bổ nhiệm, hưởng lương từ ngân sách nhà nước, công chứng viên không phải chịu trách nhiệm vật chất trước đương sự về các hậu quả do hành vi công chứng trái pháp luật của mình gây ra, chỉ phải chịu trách nhiệm hành chính trước nhà nước. Lệ phí công chứng được nộp cho ngân sách nhà nước, có trích lại một phần để trang trải thêm cho hoạt động của phòng công chứng. Có thể nói, với sự bao cấp toàn bộ của nhà nước, mô hình công chứng nhà nước chỉ phù hợp với cơ chế kế hoạch hoá tập trung và nền kinh tế hiện vật, trong đó, các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại không phát triển. ở đó, vai trò công chứng chủ yếu là nhằm bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ tài sản XHCN và tài sản cá nhân.
Có thể thấy rõ ưu thế vượt trội của mô hình công chứng tự do so với mô hình công chứng nhà nước. Đó là sự đề cao, phát huy trách nhiệm cá nhân của công chứng viên, tạo ra cơ chế cạnh tranh lành mạnh, tạo động lực để các công chứng viên phát huy tính tích cực, chủ động nhiệt tình trong hoạt động của mình, giảm nhẹ sự bao cấp của nhà nước, làm cho bộ máy nhà nước tinh giản, gọn nhẹ, tách bạch chức năng quản lý nhà nước với chức năng cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực công chứng. Mô hình tổ chức này không chỉ tiết kiệm cho ngân sách nhà nước mà còn tăng thu ngân sách thông qua việc đóng thuế của các công chứng viên. Về mặt tổ chức và hoạt động, mô hình công chứng tự do tạo ra sự linh hoạt về mặt tổ chức, bảo đảm đáp ứng kịp thời nhu cầu công chứng của nhân dân.
Xã hội hoá công chứng
Xã hội hoá công chứng là quá trình nhà nước thực hiện đổi mới phương thức tổ chức hoạt động công chứng, từng bước chuyển giao hoạt động công chứng cho các cá nhân, tổ chức phi nhà nước thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả công chứng, đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Như vậy, xã hội hoá công chứng chính là sự xoá bỏ độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực công chứng. Trong quá trình đó, nhà nước rút dần khỏi việc trực tiếp cung ứng dịch vụ công chứng, tiến tới chuyển giao hẳn cho các chủ thể phi nhà nước thực hiện, nhà nước chỉ đóng vai trò duy nhất là người thực hiện quản lý nhà nước.
Xã hội hoá công chứng góp phần phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước và quản lý nghề công chứng. Nhà nước tăng cường quản lý bằng pháp luật, xây dựng thể chế, tạo môi trường pháp lý, bảo đảm quyền tự do kinh doanh, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực công chứng. Xã hội hoá công chứng góp phần phục vụ kịp thời các nhu cầu về công chứng, tạo điều kiện để mọi người dân, với địa vị xã hội, khả năng kinh tế khác nhau đều bình đẳng, dễ tiếp cận với dịch vụ công chứng, xoá bỏ tâm lý e ngại khi người dân tiếp cận với công chứng.
Xã hội hoá công chứng là một quá trình lâu dài với những bước đi phù hợp với sự phát triển kinh tế – xã hội, trình độ dân trí, quá trình dân chủ hoá mọi mặt đời sống xã hội, năng lực quản lý của nhà nước, khả năng của xã hội và nhu cầu của xã hội đối với công chứng. Vì thế, xã hội hoá công chứng không giống nh một cuộc cách mạng xã hội, không tạo sự thay đổi đột ngột làm mất ổn định xã hội.
Hiện nay, hầu hết các nước có nền kinh tế chuyển đổi (CH liên bang Nga, các nước XHCN cũ ở Đông Âu, Cu Ba, Trung Quốc) đều đang cải cách công chứng theo xu hướng chuyển dần từ mô hình công chứng nhà nước sang mô hình công chứng tự do, hay nói cách khác, đang từng bước xã hội hoá công chứng. Trong giai đoạn đầu của quá trình cải cách, song song tồn tại hai hệ thống: bên cạnh các phòng công chứng nhà nước đã thành lập, với các công chứng viên nhà nước là các phòng công chứng tư nhân mới thành lập, dần được nhân rộng với các công chứng viên hành nghề tự do, đặt trước sự quản lý bằng pháp luật của nhà nước.
Như vậy, xã hội hoá công chứng là việc chỉ đặt ra đối với các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi. Tuy nhiên, xã hội hoá công chứng ở các quốc gia này là một quá trình đầy khó khăn, phức tạp, với các cản trở không nhỏ như:
- Điều kiện kinh tế – xã hội, năng lực quản lý của nhà nước chưa cho phép các quốc gia này chuyển giao ngay toàn bộ hoạt động công chứng cho xã hội.
- Tâm lý của các nhà quản lý chưa thật sự yên tâm, tin tưởng vào khả năng tham gia của xã hội vào lĩnh vực công chứng. Mặt khác, công chứng nhà nước tạo điều kiện cho nhà nước quản lý được dễ dàng, thuận tiện hơn, trong khi xã hội hoá công chứng thì nhà nước buộc phải có sự điều chỉnh cơ chế, phương pháp, cách thức quản lý. Cần phải có một quá trình để nâng cao năng lực quản lý của nhà nước. Hơn nữa, xoá bỏ độc quyền nhà nước không thể thực hiện trong một sớm một chiều vì nó động chạm đến lợi ích cục bộ của một bộ phận quan chức nhà nước.
- Người dân đã quen với sự bao cấp của nhà nước, ỷ lại vào sự bao cấp, bảo vệ, che chở của nhà nước, sinh ra “sính” nhà nước, chỉ tin vào nhà nước, sẽ tạo ra tâm lý e ngại, hoài nghi, thiếu tin tưởng.
- Đội ngũ công chứng viên cũng đã quen với sự bao cấp của nhà nước, gắn bó với các đặc quyền của công chức nhà nước, có tâm lý không muốn hoặc chưa sẵn sàng từ bỏ các đặc quyền, đặc lợi để bước vào môi trường kinh doanh tự do như một chủ doanh nghiệp thực sự với sức ép của cạnh tranh, của sự đào thải trong kinh tế thị trường.
Trước các cản trở trên, để cải cách công chứng theo định hướng xã hội hoá, một mặt, phải có sự quyết tâm, sự đồng thuận trong xã hội, có tầm nhìn chiến lược, có biện pháp cải cách mạnh mẽ với sự tham gia tích cực, chủ động của Nhà nước, xã hội, đội ngũ những người làm công chứng. Mặt khác, phải xác định được lộ trình với các bước đi thích hợp.
2. Sự cần thiết xã hội hoá công chứng ở Việt Nam hiện nay
ở Việt Nam, thiết chế công chứng chính thức ra đời năm 1991 theo Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước. Qua 10 năm (1991 – 2000); thể chế công chứng nước ta đã hai lần sửa đổi, thay thế (theo Nghị định số 31/CP ngày 15/8/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước và Nghị định số 75/CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực).
Theo các văn bản trên, công chứng nước ta được tổ chức theo mô hình công chứng nhà nước (cơ quan công chứng là thiết chế nhà nước, công chứng viên là công chức nhà nước, hưởng lương từ ngân sách nhà nước).
Mặc dù còn nhiều khó khăn trong tổ chức, hoạt động, song trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi nền kinh tế của đất nước, công chứng thực sự đã góp phần tạo môi trường pháp lý cho các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại phát triển, phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật, tạo sự ổn định cho xã hội. Điều quan trọng hơn là công chứng đã góp phần mở rộng dân chủ, tạo điều kiện để người dân bước đầu hình thành ý thức sử dụng các công cụ pháp lý, biện pháp hợp pháp để bảo vệ mình trong đời sống dân sự; tạo cho người dân ý thức, trách nhiệm tốt hơn khi tham gia giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại.
Song, cùng với sự phát triển không ngừng của kinh tế xã hội, sự gia tăng về quy mô, số lượng của các hợp đồng, giao dịch, sự đòi hỏi của xã hội về chất lượng, về sự nhanh chóng, thuận tiện, chính xác của hoạt động công chứng; về thái độ, trách nhiệm phục vụ của đội ngũ công chứng viên,... công chứng của nhà nước ta đã bộc lộ những yếu kém, bất cập cơ bản, đó là:
- Không bảo đảm tính khách quan trong hoạt động công chứng (nhà nước vừa là người làm chứng, vừa là người phán quyết);
- Sự phụ thuộc vào nhà nước về biên chế, ngân sách đã làm mất tính chủ động, tự chủ của cơ quan công chứng; không khuyến khích sắp xếp bộ máy hợp lý, gọn nhẹ để sử dụng lao động có hiệu quả, tiết kiệm kinh phí;
- Là môi trường thuận lợi cho tệ quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân;
- Biến hoạt động dịch vụ thành hoạt động công vụ thuần tuý của các công chức nhà nước; thu nhập của công chứng viên không phụ thuộc vào sản phẩm và chất lượng dịch vụ. Công chứng viên là công chức nhà nước, chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh Cán bộ, công chức, không phải chịu sức ép của cạnh tranh, không phải chịu trách nhiệm vật chất trực tiếp trước khách hàng về những sai phạm trong hoạt động của mình. Những điều này đã không tạo ra động lực khuyến khích tính chủ động, tích cực và ý thức trách nhiệm của công chứng viên khi thực hiện nhiệm vụ.
- Là thiết chế nhà nước, trước sức ép tinh giản biên chế nhà nước, việc mở rộng mạng lưới công chứng để tổ chức công chứng sát với nhu cầu của xã hội là khó có thể được thực hiện. Hiện nay, trên toàn quốc chỉ có 115 phòng công chứng với khoảng 350 công chứng viên và khoảng 500 nhân viên giúp việc công chứng[2]. Song trên thực tế, công việc mang tính chất công chứng còn đang được giao cho 617 UBND cấp huyện và 10.476 UBND cấp xã thực hiện. Để thực hiện phương châm tách bạch phạm vi, thẩm quyền công chứng, chứng thực, nhằm tách bạch hoạt động quản lý nhà nước với hoạt động dịch vụ công, nếu giữ nguyên mô hình công chứng nhà nước, thì nhu cầu thực tế về biên chế cho hoạt động công chứng là rất lớn, nhà nước không có khả năng đáp ứng.
Tóm lại, trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, để đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; đổi mới tổ chức, hoạt động công chứng ở nước ta hiện nay cần phải theo hướng xã hội hoá, nhằm khắc phục các nhược điểm của công chứng nhà nước, đồng thời tạo điều kiện để nhân dân tham gia và giám sát hoạt động công chứng, giảm chi phí về nhân lực và ngân sách nhà nước; nâng cao chất lượng hiệu quả công chứng.
3. Một số quan điểm, giải pháp xã hội hoá công chứng ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, xã hội hoá công chứng phải xác định phạm vi, nội dung phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế và khu vực. Đây là điều kiện quan trọng, mang tính quyết định đối với tính khả thi, sự thành công của quá trình xã hội hoá công chứng ở Việt Nam.
Có thể nói ở nước ta hiện nay, xã hội hoá dịch vụ công nói chung, xã hội hoá công chứng nói riêng là vấn đề mới và khó, chưa có tiền lệ, chưa có kinh nghiệm nên phải tiến hành thận trọng, tránh chủ quan, duy ý chí, tránh sự sao chép, vay mượn bất cứ một hình mẫu công chứng nào để áp đặt vào Việt Nam. Cần phải thấy rằng, mô hình công chứng hiệu quả nhất có thể không phải là mô hình tiên tiến nhất, hiện đại nhất trên thế giới, mà phải là mô hình phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, mang bản sắc Việt Nam, đồng thời, phù hợp với thông lệ quốc tế. Bởi không chỉ có điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, đặc điểm tâm lý, truyền thống dân tộc mà cả xu thế hội nhập quốc tế và khu vực cũng đang tác động mạnh mẽ đến quá trình xã hội hoá công chứng ở nước ta; đặt ra yêu cầu “quốc tế hoá” lĩnh vực công chứng, khắc phục những “dị biệt” của thiết chế công chứng Việt Nam so với các hệ thống công chứng trên thế giới hiện nay.
Thứ hai, xã hội hoá công chứng phải được coi là một nội dung nằm trong chương trình tổng thể cải cách hành chính và chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
ở nước ta, công chứng còn đang là một thiết chế nhà nước, được tổ chức như một cơ quan công quyền, với chức năng bổ trợ tư pháp. Vì thế, xã hội hoá công chứng vừa là yêu cầu, vừa là một nội dung của cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
Có thể xem mối quan hệ giữa cải cách công chứng và cải cách hành chính, cải cách tư pháp là mối quan hệ giữa bộ phận và toàn bộ, có sự tác động qua lại lẫn nhau, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất, toàn diện; tránh được sự mâu thuẫn trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo; khắc phục tình trạng thiếu đồng bộ, chắp vá, bị động với các giải pháp tình thế trong quá trình thực hiện cải cách công chứng nói riêng, cải cách hành chính và cải cách tư pháp nói chung.
Thứ ba, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp
Đặc trưng của hệ thống chính trị nước ta là một đảng duy nhất cầm quyền; xã hội hoá công chứng là một nội dung của cải cách hành chính, cải cách tư pháp, vì thế không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết, nhằm định hướng, bảo đảm sự ổn định chính trị, giữ vững bản chất của nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân trong suốt quá trình thực hiện xã hội hoá công chứng.
Nhà nước quản lý chủ yếu bằng pháp luật, tạo môi trường pháp lý, khung pháp luật cho quá trình xã hội hoá công chứng. Thông qua pháp luật, nhà nước bảo đảm quá trình xã hội hoá giữ đúng định hướng, bảo đảm ổn định trật tự, công bằng xã hội, tránh tình trạng tự phát, tự do, vô chính phủ, tuỳ tiện, vô nguyên tắc, gây mất ổn định, trật tự, công bằng xã hội.
Vai trò tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp (tổ chức quản lý nghề công chứng) đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực quản lý nghề công chứng, giúp cho Nhà nước giảm tải các công việc không thuộc chức năng quản lý, tạo ra các chuẩn mực chung về đạo đức, phong cách, nghiệp vụ công chứng viên. Tổ chức này sẽ giúp công chứng viên tự tin trong nghề nghiệp, nâng cao vai trò, vị thế, uy tín của công chứng viên trong xã hội cũng như đối với các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan xét xử, nâng cao chất lượng hoạt động và trách nhiệm phục vụ khách hàng của công chứng viên.
Thứ tư, xã hội hoácông chứng phải được tiến hành theo những bước đi phù hợp, có mục tiêu, nội dung, giải pháp cụ thể xuất phát từ tình hình thực tế, trình độ phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội và truyền thống pháp lý Việt Nam; kế thừa những thành tựu đã có, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài, đặc biệt là kinh nghiệm xã hội hoácông chứng ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi. Xác định nội dung, bước đi không chỉ tính đến tình hình xã hội hiện tại, mà còn phải dự báo được xu thế của phát triển trong tương lai.
Một số giải pháp
Để chủ trương xã hội hoá công chứng của Đảng và nhà nước sớm trở thành hiện thực, trước mắt cần tiến hành đồng bộ một số giải pháp sau:
Cần làm rõ lý luận về xã hội hoá dịch vụ công và xã hội hoá công chứng để thống nhất về nhận thức, tạo sự đồng thuận trong xã hội. Vì xã hội hoá dịch vụ công nói chung, xã hội hoá công chứng nói riêng là vấn đề khá mới mẻ ở Việt Nam hiện nay, chưa được làm sáng tỏ về mặt lý luận, còn có nhiều cách hiểu khác nhau không chỉ trong nhân dân mà cả trong đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp, các chuyên gia và các nhà nghiên cứu. Trước hết, cần làm rõ các nội dung: khái niệm công chứng, bản chất công chứng, giá trị pháp lý của văn bản công chứng, vai trò công chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; phân biệt rõ phạm vi công chứng, phạm vi chứng thực, thẩm quyền công chứng, thẩm quyền chứng thực... Đồng thời, nghiên cứu làm rõ các khái niệm: xã hội hoá dịch vụ công, xã hội hoá công chứng, quan điểm, nguyên tắc, phạm vi xã hội hoá công chứng. Chú trọng nghiên cứu tổng kết thực tiễn trong lĩnh vực công chứng, đánh giá những thành tựu đã đạt được, những hạn chế, bất cập, phân tích rõ các nguyên nhân và rút ra bài học kinh nghiệm để xây dựng chiến lược cho sự phát triển lâu dài, bền vững của công chứng theo định hướng xã hội hoá.
Hoàn thiện thể chế công chứng trên cơ sở xây dựng Pháp lệnh Công chứng theo định hướng xã hội hoá với các nội dung phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống pháp lý của dân tộc, đồng thời, đảm bảo tính tương thích với pháp luật quốc tế. Trong đó, Pháp lệnh chỉ nên điều chỉnh về tổ chức, hoạt động công chứng, còn chứng thực là hoạt động của các cơ quan hành chính công quyền không nên quy định ở đây. Pháp lệnh cần khẳng định các nội dung: khái niệm công chứng, phạm vi công chứng, giá trị pháp lý của văn bản công chứng; căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục huỷ văn bản công chứng, bác bỏ giá trị pháp lý của một văn bản công chứng; hậu quả pháp lý của việc công chứng trái pháp luật. Quy định về thẩm quyền quản lý nhà nước, quản lý nghề nghiệp đối với lĩnh vực công chứng; xây dựng quỹ bảo hiểm nghề nghiệp của công chứng viên; những bảo đảm cho hoạt động công chứng; cơ chế giám sát của nhà nước, của xã hội đối với công chứng. Cần thiết phải quy định chặt chẽ, cụ thể, rõ ràng về trình tự, thủ tục công chứng để tránh sự áp dụng tuỳ tiện, vô nguyên tắc, gây phiền hà cho khách hàng.
Yêu cầu hoàn thiện thể chế công chứng phải gắn liền với yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, đặc biệt là pháp luật liên quan đến lĩnh vực công chứng để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi (pháp luật về hợp đồng, pháp luật về sở hữu, pháp luật về thuế, lệ phí và phí...)
Nâng cao chất lượng đội ngũ công chứng viên theo hướng chuyên nghiệp hoá. Công chứng viên không phải chỉ là người được đào tạo cơ bản về luật pháp, về nghề công chứng, tinh thông nghề nghiệp, giàu kinh nghiệm, vốn sống mà còn phải có phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp (trung thực, vô tư, khách quan, liêm khiết, nhiệt tình, trách nhiệm...). Đồng thời, họ phải có kiến thức về ngoại ngữ, tin học để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với công chứng.
Trước các yêu cầu trên, để nâng cao chất lượng đội ngũ công chứng viên theo hướng chuyên nghiệp hoá, cần xây dựng kế hoạch, chiến lược đào tạo toàn diện. Trước mắt, làm tốt công tác đào tạo nghề công chứng với việc xây dựng chương trình, giáo trình chuẩn và đội ngũ giáo viên chuyên nghiệp, kết hợp nhuần nhuyễn giữa giảng dạy lý thuyết và thực hành. Đồng thời, cần phải xây dựng quy tắc đạo đức nghề nghiệp của công chứng viên; bảo đảm các nguyên tắc bổ nhiệm công chứng viên với điều kiện bổ nhiệm và quy trình bổ nhiệm chặt chẽ. Đổi mới chế độ chính sách đối với công chứng viên, tạo động lực để công chứng viên phát huy tính tích cực, chủ động, đề cao trách nhiệm phục vụ trong hoạt động nghề nghiệp của mình.
Xác định lộ trình phù hợp, có nội dung mục tiêu cụ thể cho từng bước đi. Trước mắt, cần sớm rà soát, sắp xếp lại hệ thống cơ quan công chứng, đánh giá chất lượng đội ngũ công chứng viên trên phạm vi cả nước để có giải pháp tăng cường, củng cố, kiện toàn tổ chức cơ quan công chứng và có chính sách đào tạo, đào tạo lại đội ngũ công chứng viên theo hướng chuyên nghiệp.
Cần đánh giá kịp thời hiệu quả quản lý nhà nước đối với tổ chức hoạt động công chứng, chứng thực. Xác định rõ thẩm quyền và phân cấp quản lý, làm rõ trách nhiệm của ngành, cấp đối với lĩnh vực công chứng. Nghiên cứu thành lập tổ chức tự quản nghề công chứng để tách bạch thẩm quyền quản lý nhà nước và thẩm quyền quản lý nghề công chứng, giảm bớt gánh nặng quản lý cho nhà nước.
Đề nghị nên thí điểm, từng bước tiến tới chuyển toàn bộ các phòng công chứng sang chế độ tự trang trải về tài chính bằng nguồn thu lệ phí công chứng và phí dịch vụ theo quy định của pháp luật. Tiến tới nên thí điểm thành lập một số văn phòng công chứng tư nhân ở một số địa phương có nhu cầu công chứng cao và có khả năng quản lý tốt như ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh... áp dụng cơ chế quản lý, cơ chế giám sát phù hợp, bảo đảm sự bình đẳng pháp lý giữa các tổ chức công chứng tư nhân với các phòng công chứng nhà nước; giữa giá trị pháp lý của văn bản công chứng tư nhân với giá trị pháp lý của văn bản công chứng nhà nước. Đồng thời, có chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển, từng bước nhân rộng mô hình công chứng tư nhân. Chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để đến năm 2020 công chứng nước ta có thể chuyển hẳn sang mô hình công chứng tự do với các hình thức tổ chức phù hợp.
[1] Nguyễn Văn Toàn, Thông tin khoa học pháp lý, số chuyên đề “Công chứng Việt Nam trong nền kinh tế thị trường hướng theo mô hình Latinh”, tháng 1 năm 2005, Tr. 9-30
[2] Nhà Pháp luật Việt – Pháp, “Tài liệu hội thảo Quy chế nghề công chứng và phương hướng xây dựng Pháp lệnh công chứng Việt Nam”, T1-2005
Lê Thị Phương Hoa
Bài đăng trên Tạp chí Nghiên cứu và Lập pháp
http://vietnamese-law-consultancy.com/vietnamese/
Các bản tin khác